Được biết, tai biến sản khoa có thể xảy ra trong lúc mang thai, chuyển dạ, sảy thai hay sinh non, thậm chí trong thời gian hậu sản (6 tuần sau sinh), có nguy cơ ảnh hưởng tới tính mạng của cả mẹ và bé.
Tai biến sản khoa là điều mà bất kỳ sản phụ nào cũng nguy cơ phải đối mặt, nó có thể xuất hiện ở bất kỳ thời điểm nào của thai kỳ và trở nên nguy hiểm hơn vì không thể tiên lượng trước được, đồng thời còn đe dọa tính mạng của cả sản phụ lẫn thai nhi.
Theo các thống kê, mỗi năm trên toàn cầu có khoảng 515.000 phụ nữ t.ử v.ong trong quá trình mang thai và sinh nở. Tại Việt Nam, gần 800 bà mẹ t.ử v.ong hàng năm do các tai biến sản khoa có thể phòng ngừa hoặc điều trị sớm. Bên cạnh đó, vẫn có gần 2 triệu phụ nữ có thai mỗi năm đang phải đối mặt với hàng loạt nguy hiểm gây ra bởi biến chứng sản khoa. Đáng chú ý, Việt Nam đứng thứ 80 trong số 184 quốc gia về tỷ lệ trẻ sơ sinh t.ử v.ong, VTV đưa tin.
Được biết, tai biến sản khoa có thể xảy ra trong lúc mang thai, chuyển dạ, sảy thai hay sinh non, thậm chí trong thời gian hậu sản (6 tuần sau sinh), có nguy cơ ảnh hưởng tới tính mạng của cả mẹ và bé.
Trước tình hình này, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với Bác sĩ chuyên khoa 2 Đỗ Xuân Vinh – Trưởng khoa Đẻ A2 – Bệnh viện Phụ sản Hà Nội để giúp các mẹ cùng tìm hiểu về cách phát hiện sớm và can thiệp kịp thời tai biến sản khoa.
Bác sĩ chuyên khoa 2 Đỗ Xuân Vinh – Trưởng khoa Đẻ A2 – Bệnh viện Phụ sản Hà Nội.
– PV: Thưa Bác sĩ, Bác sĩ có thể cho biết tai biến sản khoa là gì? Những loại tai biến sản khoa thường gặp?
– Bác sĩ Đỗ Xuân Vinh: Trong thai kỳ 40 tuần người phụ nữ sẽ trải qua rất nhiều biến cố. Trong đó, có những biến cố được y văn thống kế cho rằng đó là tai biến sản khoa. Tôi có thể ví trong 9 tháng 10 ngày người phụ nữ vừa hưởng niềm hạnh phúc khi được làm mẹ lại vừa như ôm quả b.om n.ổ chậm.
Có 5 tai biến sản khoa thường gặp đó là: băng huyết sau sinh, t.iền sản giật, tổn thương tử cung vỡ tử cung, n.hiễm t.rùng hậu sản sau sinh và uống ván sơ sinh. 5 tai biến này thường trực trong suốt quá trình mang thai, trong lúc sinh và sau khi sinh đều có thể xảy ra.
– PV: Xin Bác sĩ cho biết cụ thể hơn về từng loại tai biến sản khoa? Thời điểm nào trong thai kỳ dễ gặp tai biến sản khoa nhất?
– Bác sĩ Đỗ Xuân Vinh: Tôi có thể kể ra những tai biến cụ thể như sau:
1. Băng huyết sau sinh: Sau một cuộc sinh nở của phụ nữ bao giờ cũng có hiện tượng c.hảy m.áu. C.hảy m.áu từ đâu ra?
Thứ nhất, là c.hảy m.áu từ tử cung diện rau bám để co tử cung lại.
Thứ hai, là c.hảy m.áu ở ống đẻ toàn bộ hệ thống từ tầng sinh môn, â.m đ.ạo. Như vậy, mất m.áu trước, trong khi đẻ và sau đẻ 24 tiếng thì m.áu sản dịch chảy ra (màu co hồi tử cung). Nếu mất m.áu trên 500ml thì gọi là băng huyết sau sinh, còn đối với sinh mổ thì mất m.áu trên 1000ml được coi là băng huyết. Hoặc trong đẻ, người ta tính lượng m.áu mất đi bằng 1/10 lượng m.áu của cơ thể ( cơ thể mỗi người khoảng 4000ml m.áu).
Để phát hiện băng huyết sau sinh, tại Bệnh viện Phụ sản hiện nay tiến hành 3 khâu đo.
Thứ nhất, đo c.hảy m.áu bong rau (sau khi sổ thai) được đo bằng túi.
Thứ hai, cân lượng m.áu trong bông gạc.
Thứ ba, cân lượng m.áu trong bỉm của phụ sản, 6 tiếng 1 lần, cân 4 lần để tiên lượng mất mất. Ngoài ra còn nhiều yếu tố như: m.áu c.hảy liên tục trong 24h, m.áu đỏ; các triệu chứng lâm sàng da, niêm mạc nhợt nhạt.
Tai biến sản khoa có thể xảy ra trong lúc mang thai, chuyển dạ, sảy thai hay sinh non, thậm chí trong thời gian hậu sản (6 tuần sau sinh), có nguy cơ ảnh hưởng tới tính mạng của cả mẹ và bé. (Ảnh: Internet)
2. Tăng huyết áp thai kỳ (hay còn gọi là t.iền sản giật): bệnh lý này có thể xuất hiện trong lúc có thai hoặc lúc đang chuyển dạ hoặc sau khi đẻ đều có thể xuất hiện là rối loạn tăng huyết áp. Khi thăm khám sẽ thấy huyết áp cao, phù, xét nghiệm khối tiết niệu thì sẽ tiên lượng được t.iền sản giật. Trong quá trình theo dõi thai nghén sẽ biểu hiện triệu chứng về thần kinh như đau đầu, phù não, suy tạng, gan thận. Tai biến xảy ra nếu ta không dự phòng tốt sẽ dẫn đến sản giật thậm chí gây t.ử v.ong.
3. Vỡ tử cung: Khi tử cung đang bình thường bị vỡ các lớp cơ từ lớp cơ, thanh mạc, niêm mạc tử cung. Vỡ tử cung có thể xảy ra trong quá trình mang thai và lúc chuyển dạ sinh.
Trong quá trình mang thai, tử cung vỡ do tử cung có tổn thương cũ như các sẹo mổ cũ ở tử cung, dị dạng tử cung ( tử cung nhi tính, tử cung hai sừng, tử cung đôi) thì mức độ chỉ chứa được giới hạn. Tử cung vỡ có thể do thai xuất hiện ngay trên vết mổ, rau thai ăn sâu vào lớp cơ gây vỡ. Nếu sản phụ mang đa thai, hoặc đa ối làm tử cung căng quá mức cũng gây vỡ.
Trong lúc chuyển dạ: vỡ tử cung do ngôi thai bất thường tiến triển nhanh và chưa kịp xử lý. Hoặc khi sản phụ chuyển dạ kéo dài gây yếu cơ tử cung, hoặc cơn co quá mức gây cường tính khi dùng thuốc tăng co cũng dẫn đến vỡ tử cung.
4. N.hiễm t.rùng hậu sản: Thời kỳ hậu sản là sau khi ổn định về giải phẫu và sinh lý (tầm khoảng 42 ngày). Trong suốt 6 tuần đó nếu có n.hiễm t.rùng bộ phận s.inh d.ục thì được coi là n.hiễm t.rùng hậu sản. Trước đây, vấn đề này khá nặng nề nhưng hiện nay với nhiều loại kháng sinh mạnh được điều trị kịp thời nên đã hạn chế được nhiều. Nhưng đây là t.iền đề của n.hiễm t.rùng tử cung, n.hiễm t.rùng huyết.
5. Uốn ván rốn sơ sinh: Trước đây uốn ván vốn sơ sinh là một thảm họa ở các nước kém phát triển khi các sản phụ không được chăm sóc y tế đúng cách. Uốn ván sơ sinh là bệnh n.hiễm t.rùng vốn bởi trực khuẩn uốn ván Clostridium tetani. Đây là loại độc tố xâm nhập vào cơ thể trẻ thông qua đường rốn, qua vết cắt dây rốn bằng dụng cụ có mang nha bào uốn ván như: dao, kéo, băng bông không được vệ sinh tiệt trùng đúng quy cách, không sạch sẽ.
Bệnh này tuy rất nguy hiểm, song việc phòng ngừa không hề khó bởi đã có vắc-xin. Bệnh thường xuất hiện khoảng ngày thứ 3 sau sinh đến ngày thứ 28.
Theo BS. Đỗ Xuân Vinh, khám thai định kỳ là điều quan trọng nhất để phòng tránh tai biển sản khoa. (Ảnh: Internet)
– PV: Vậy làm thế nào để có thể phòng tránh tai biến sản khoa?
– Bác sĩ Đỗ Xuân Vinh: Khám thai định kỳ là điều quan trọng nhất.
Thứ hai, khi đứng trước các bệnh lý cần được xử lý sớm. Chẩn đoán sớm và xử trí đúng lúc trong thời gian vàng của các tai biến sẽ mang lại hiệu quả cao.
Thứ ba, chúng ta cần đào tạo, tập huấn cho đội ngũ đỡ đẻ, hộ sinh. Tôi lấy ví dụ có người đỡ đẻ không gây rách, có người lại làm rách hết tầng sinh môn, â.m đ.ạo của sản phụ.
Thứ 4 là phải chăm sóc thiết yếu cho mẹ và sơ sinh để tránh n.hiễm t.rùng
Thứ 5 cần tránh chuyển dạ kéo dài ( với con so là trên 20 tiếng, với con dạ là 14 tiếng). Khi chuyển dạ kéo dài sẽ rất dễ n.hiễm t.rùng nếu vì phải thăm khám nhiều.
Thứ 6 cần đảm bảo đúng nguyên tắc vô khuẩn. Đó là điều có thể dự phòng tai biến sản khoa trong suốt thai kỳ.
PV: Trân trọng cảm ơn Bác sĩ./.
Cụ bà 68 t.uổi sinh đôi thành công, t.uổi của người chồng mới gây ngỡ ngàng
Trải qua 46 năm kiên trì chờ đợi, cuối cùng bà mẹ này cũng có được đứa con đầu lòng ở t.uổi 68.
Mới đây, một bà mẹ người Nigeria đã trở thành người phụ nữ lớn t.uổi nhất sinh con đầu lòng ở châu Phi. Theo Metro đưa tin , bà Margaret Adenuga đã hạ sinh thành công một cặp sinh đôi một trai một gái vào hôm 19/4 vừa qua tại Bệnh viện giảng dạy Đại học Lagos (LUTH) ở TP. Lagos (Nigeria), ở t.uổi 68. Điểu gây ngỡ ngàng là t.inh t.rùng để thụ tinh được lấy từ chính chồng bà là ông Noah năm nay đã 77 t.uổi.
Cả hai kết hôn vào năm 1974 và kể từ đó, họ luôn nỗ lực để có con, trong đó có 3 lần thụ tinh trong ống nghiệm nhưng thất bại. Không chỉ điều trị sinh sản trong nước, họ đã dành t.iền tiết kiệm đến các bệnh viện ở một số nước Tây Phi và Anh.
Trong khi nhiều cặp vợ chồng thường từ bỏ ước mơ có con sau nhiều năm nỗ lực điều trị sinh sản mà không thành thì vợ chồng ông Noah và Margaret lại không như vậy.
Vợ chồng bà Margaret và ông Noah đón cặp song sinh sau 46 năm chờ đợi.
Suốt 46 năm, họ luôn giữ vững niềm tin rằng một ngày nào đó sẽ được làm cha mẹ. ” Tôi là một người mơ mộng và tôi tin rằng giấc mơ đặc biệt đó của chúng tôi sẽ thành hiện thực“, ông Noah chia sẻ.
Và cuối cùng lần IVF thứ 4 đã thành công và còn là mang thai đôi. Bác sĩ Adeyemi Okunowo, người trực tiếp điều trị cho bà Margaret cho biết một nhóm chuyên gia đã được tập hợp tại bệnh viện để theo dõi thai kỳ cho sản phụ t.uổi cao này.
” Là một phụ nữ lớn t.uổi và lần đầu làm mẹ nên đây là một thai kỳ có nguy cơ cao, chưa kể sản phụ còn mang thai đôi”, Bác sĩ Okunowo nói.
Năm ngoái, một phụ nữ Ấn Độ 73 t.uổi sinh đôi hai con gái an toàn nhờ thụ tinh ống nghiệm. Bà được xem là người mẹ già nhất thế giới sinh đôi.
Năm ngoái, một bà mẹ 73 t.uổi cũng đã sinh đôi thành công.
Theo bác sĩ Okunowo, phụ nữ lớn t.uổi có thể thụ thai trong ống nghiệm nhưng cũng có những rủi ro y tế liên quan khi mang thai ở độ t.uổi đó.
” Có những biến chứng y khoa liên quan đến t.uổi tác khi mang thai ở độ t.uổi này, chẳng hạn như em bé bị sinh non. Bà ấy may mắn nhưng nhiều người có thể không chịu nổi các biến chứng khác trong hoặc sau khi sinh”, bác sĩ Okunowo nói.
Những rủi ro khó lường khi mang thai sau 50 t.uổi
Phụ nữ lớn t.uổi khi có ý định sinh con cần biết trước những nguy cơ để chuẩn bị tâm lý, sức khỏe vượt qua bởi chắc chắn rằng quá trình mang thai, sinh nở sẽ vất vả hơn bình thường. Phụ nữ lớn t.uổi, đặc biệt trên 40 t.uổi mang thai sẽ có nguy cơ cho cả mẹ và thai nhi.
Những nguy cơ cho thai phụ:
Nguy cơ cho người mẹ là sẩy thai, băng huyết sau sinh, t.iền sản giật, sản giật, nhau t.iền đạo.
Gần 15% phụ nữ bị sảy thai dưới 35 t.uổi, tỉ lệ sảy tăng lên 20% ở độ t.uổi 35-37; 25% ở độ t.uổi 38-40 và 40% sau 40 t.uổi. Vì tỉ lệ sảy thai cao ở những phụ nữ có t.uổi, cho nên số bị sảy từ 2 lần trở lên không phải là hiếm.
Người mẹ bị t.iền sản giật có thể gây biến chứng nghiêm trọng cho người mẹ và thai nhi. Người mẹ có nguy cơ bị tổn thương gan, thận, c.hảy m.áu hay co giật khi chuyển dạ. Bệnh cũng khiến thai nhi chậm phát triển, thậm chí thai bị c.hết lưu
Quá trình mang thai cũng dễ khiến các bệnh mãn tính đã mắc phải trước đó (nếu có) trở nên tăng nặng.
Một nghiên cứu cho thấy rằng những phụ nữ mang thai sau 50 t.uổi bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm vẫn có thể có một thai kỳ khỏe mạnh, miễn là bạn được chăm sóc tốt trong quá trình mang thai.
Nguy cơ cho thai nhi:
Không chỉ người mẹ phải đối mặt với các vấn đề về sức khỏe mà thai nhi cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất định.
Đối với việc thụ thai thông thường, nguy cơ bé sinh ra chậm phát triển trí tuệ và vận động cao (do mẹ càng lớn t.uổi, các nhiễm sắc thể trong trứng dễ bị dính vào nhau, gây các bệnh liên quan đến rối loạn nhiễm sắc thể như hội chứng Down, Edwards…).
Để giảm nguy cơ này, bạn có thể sử dụng trứng hiến tặng của những phụ nữ trẻ t.uổi. Tuy nhiên với phương pháp này, trứng được thụ tinh là trứng hiến tặng của người phụ nữ độ t.uổi dưới 35, có chất lượng tốt không có nghĩa là con sinh ra chắc chắn khỏe mạnh. Trường hợp này, thai nhi vẫn có nguy cơ mắc các bệnh liên quan đến rối loạn nhiễm sắc thể, bằng tỷ lệ mắc của thai nhi có mẹ cùng độ t.uổi của người cho trứng.